.
.
I have not told half of what I saw, for I knew I would not be believed
Marco Polo 1254-1324
.
Hồi Ký Bạn Kiến Trúc _kỳ 19
.
.
Tặng Nguyễn-Bá-Quyền 64, anh Trương-Thọ 64, Võ-Minh-Cẫm 65, Nguyễn-Bá-Cung 65, Nguyễn-Thanh-Cần 66, Nguyễn-Hữu-Đức 65, Nguyễn-Trung-Lâm 66, Đan-Đình-Thành 66 và tất cả các bạn có liên quan ít nhiều đến Ti-Vi và Điện Ảnh miền Nam VN, đồng thời để tưởng nhớ các Giáo Sư và bạn học thoại kịch.
.
Chân thành cảm tạ Nguyễn-Thúc-Soạn KH64, giảng-nghiệm-viên của VĐH Đà Lạt niên khóa 69-70, là thành viên cuả ban kịch Thụ Nhân và là em rễ của Tô-Minh-Kiêm KT70.
.
Một chút tưởng nhớ Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ
.
Cũng như rất đông học sinh, sinh viên khác, ngoài việc học chánh, còn học thêm các môn khác mình yêu thích như nhạc Tây Phương, Quốc nhạc, các bộ môn kịch...tôi cũng thi vào học môn Thoại Kịch của trường Quốc-Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ sau khi đậu Tú Tài II năm 1964. Ngược lại với bên Phân-Khoa Kiến Trúc là nơi hiếm có người nổi tiếng ngoài đời, các công trình KT lớn lao vĩ đại không có, chỉ một số hiếm KTS được biết là tác giả cuả toà nhà nào, thời gian học khá lâu tại trường QGAN & KN, 1964-1970, cho phép tôi quen biết, theo học, hoặc trông thấy rất nhiều người danh tiếng, lỗi lạc vào bậc nhất VN cuả đũ mọi ngành nghệ thuật cuả một xứ tự do, chẳng những các văn nghệ sĩ đã nổi tiếng trong quá khứ, mà còn rất đông học viên tại đây sau đó trở thành nổi tiếng và có công đóng góp vào nền văn hoá cuả VN nửa!
.
Mang tiếng nghệ-sĩ trong trường Kiến Trúc, ngoài cuộc đời “bay bướm”, các SV có tài vẽ và điêu khắc tuyệt đẹp, chỉ phục vụ mỹ thuật Kiến Trúc, đa số không tham gia phe phái, ứng cử gì cả, trái lại bên trường QGAN & KN khi tất cả học viên đều học trong các bộ môn nghệ thuật khác nhau, dĩ nhiên, chữ nghệ-sĩ này không được đặt ra, nhưng ta có thể cảm thấy mùi chánh-trị phản phất đâu đó. Kể từ các biến động chánh trị sau khi TT Ngô-Đình-Diệm bị sát hại, tất cả các trường Trung-Học, Cao-Đẳng và Đại-Học tại Miền Nam đều không coi các cuộc bầu cử Ban Đại Diện là trò đùa hay không quan trọng nữa, trường QGAN & KN cũng không nằm trong ngoại lệ. Bên KT, trong khi tôi được chứng kiến một cách qua loa các đàn anh thay nhau ứng cử làm trong Ban Đại Diện, tôi đã vô tình tham dự sốt sắng bên trường QGAN&KN chỉ vì muốn phản đối lại bất công, chèn ép, phe đảng, nhờ vậy được sự ủng hộ cuả các đàn em bên đó.
.
.
Trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn, vắng vẻ tiêu điều năm 1991.
.
Trường QGAN & KN toạ lạc tại số 112, đường Nguyễn Du, Sài Gòn, được thành lập từ năm 1956. Lú́c đầu trường chỉ dạy nhạc Tây phương, sau đó dần dần bổ túc thêm ngành Quốc Nhạc và đến 1960 ngành Kịch Nghệ mới được thành lập. Bước vào cửa chánh, phiá trái là văn phòng cuả ông Giám Đốc, vào trong lớp cửa thứ hai là ngay giữa Thính Đường và phiá phải là sân khấu. Trong khi các lớp thoại kịch được dạy trong các phòng thoáng mát, chung quanh phiá hông sau cuả Thính Đường , các lớp ca kịch và quốc nhạc chia nhau các phòng ẩm thấp tối tăm trong dãy nhà gần phiá hàng rào gần đường, xưa kia thời Pháp là nhà cuả người concierge. Các lớp nhạc Tây Phương chia nhau dãy nhà lầu mới bên tay phải cuả khu đất. Đàng sau nửa là lớp Hát Bội. Tóm lại ngành Thoại Kịch được ưu tiên nhất là vì học ở các lớp gần sân khấu nhất và thường xuyên học ngay tại trên s. k. Cái s.k. với sàn làm bằng ván gỗ đánh vernis, hai bức màn nhung màu đỏ rượu chát lúc nào cũng được vén qua hai bên và chỉ được buông xuống khi có các cuộc trình diễn.
.
Tôi bước chân vô trường này với lòng tự tin vì trong hành trang đã có mảnh bằng Tú Tài II, tỉnh bơ khi nhìn thấy đa số học viên nhạc Tây Phương có vẻ “xì nốp” và kiêu ngạo, chắc họ hảnh diện vì chữ Conservatoire National Supérieur de Musique lắm vì ngày xưa, trước khi Việt Nam dành được độc lập năm 1954, chỉ có những ai khá giả hoặc thắt lưng buột bụng kinh khủng mới có thể gởi con qua Pháp học tại ngôi trường cùng tên tại Paris. Cả ba chị em chúng tôi đã được mẹ cho đi học dương cầm từ nhỏ với bà Tỵ* đồng thời học ký-âm-pháp (solfège) với người em dâu cuả bà, đến khi mẹ tôi mất, vì chỉ còn một đầu lương, không kham nổi, nên ông thân đã yêu cầu chúng tôi ngưng học. Lớn lên, học đàn guitar với bạn rồi thích và chơi nhạc Rock, cho nên không có cảm tình lắm với các cô mặc đầm, kênh kiệu, học kéo violon hay piano này so với các cô gái mặc áo dài tha thướt, theo học đàn tranh hay đàn tỳ bà tại đây.
.
Cuối niên khoá 67-68, trong cuộc thi tốt nghiệp ngành Thoại Kịch, tôi là người duy nhất bị đánh rớt trong tổng số 6 học-viên còn lại cuả ngành này sau 4 năm học: Huỳnh-Bang-Gia, Lê-Văn-Hiểu, Đồng-Công-Quan*, LCQ, Nguyễn-Trọng-Tài*, Nguyễn-Thị-Thanh-Tiếng . Vì quá say mê vai Hamlet cuả Shakespeare đã được ông Hoàng-Trọng-Miên phóng tác, tôi đã chọn màn độc thoại cuả vai này (dài khoảng một trang giấy đánh máy) để thi tốt nghiệp trên sân khấu cuả trường, trước mặt hội đồng giám khảo gồm các ông Vũ-Khắc-Khoan (q.c.), Hoàng-Trọng-Miên (q.c.), Đinh-Xuân-Hoà và Hà-Bay* vốn tốt nghiệp từ khoá 1 và
.
.
Trường Q G Â N & K N Sài Gòn, dãy nhà lầu cho ngành nhạc Tây phương.
Thật ra bất cứ ngành nào cần lớp cũng có thể xử dụng được.
.
trở thành giáo sư sau đó. Thật là oái oăm, 1964, lúc thi tuyển vào trên tổng số 11 người, tôi được đậu hạng nhì, chỉ sau Nguyễn-Thị-Thanh-Tiếng, vậy mà sau 4 năm học, bị rớt ngon ơ như thể càng học càng thoái bộ, để cuối cùng trở thành số không!..Phe đảng Hoàng-Trọng-Miên (q.c.) Hà-Bay đã kéo níu một số học viên theo mình và gây ra không biết bao nhiêu điều bỉ ổi trong ngành th.k.Việc Hà-Bay ra sức tập luyện riêng cho vai Thừa cho Lê-Văn-Hiểu trong vở Giòng họ tội lỗi tuy không công bằng, vì trong một vở kịch lớn, tất cả vai đều phải được chỉ dẫn ngang nhau, nhưng qua năm sau (1968), chúng tôi trình diễn vở Đền Tội cuả Vũ-Đức-Duy tại trường, đến lúc then chốt của vở kịch là cảnh vai người vợ (Phụng) cầm súng bắn một phát vào người chồng (tôi) ngay trước mặt mấy trăm khán giả, súng không nổ, cũng chẳng có tiếng súng, không biết làm thế nào hơn được, tôi cũng giả vờ bị trúng đạn nhào lăng ra, đúng như trong kịch bản...thật là ngố địt và buồn cười cho một vở bi kịch! Vở kịch tập dợt cả mấy tháng trời, không tốn tiền là bao nhiêu nhưng tốn công cho tất cả mọi người kể cả tổ chức, mời mọc, sắp xếp..v..v..coi như bị thất bại! Sau khi màn hạ, mặt còn đầy râu ria son phấn, tôi lập tức chạy vào phía trong cánh gà la lớn vô mặt Lê-Văn-Hiểu, vì Hiểu không có vai trong kịch nhưng “tình nguyện” làm “quản diễn sân khấu”:
- Tại sao mày không làm tiếng súng?
- Ườm...vì nhiều việc quá...nên...quên.
- Mày có thể quên được một việc quan trọng như vậy à?_Hiểu im lặng cười cười coi rất đểu giả và hiểm ác.
.
Lúc đó tôi cố nhịn nhục không thể làm gì hơn là nuốt cơn giận mặc dù bị phe “ác” chơi một cú đau điếng! Nhưng sau đó chừng vài tháng, một cuộc bầu cử đại diện cho ngành th.k. do Hà Bay điều khiễn bị thất bại. Nguyên do, trưởng ban đại diện niên khoá rồi là Nguyễn-Bá-Khoa khoá 4, với bạn là Nguyễn-Văn-Sang, bị cánh H.T.Miên đánh rớt tốt nghiệp phải học lại. Sau hai lần bỏ phiếu, số phiếu cứ ngang nhau, Hà Bay đành năn nỉ:
- Tôi xin anh chị nào làm ơn thay đổi ý kiến, vì chỉ cần 1 phiếu cuộc bầu này sẽ được giải quyết ngay.
Tôi đang nằm dài chán ngán trên băng, ngồi dậy đưa tay:
- Tôi có ý kiến.
- Mời anh _Hà Bay nói.
- Chúng tôi, tất cả mọi người ở đây đều trưởng thành, chúng tôi đã suy nghĩ chính chắn rồi mới bỏ phiếu, tôi thấy ở đây đâu có ai trẻ con đâu mà thay đổi ý kiến? Càng bầu lại càng làm mất thêm thì giờ anh em vô ích!
Hà Bay biết là câu nói cuả tôi có tác dụng tâm lý, khiến cho kết quả không đổi, tức lắm:
- Ồ, anh nói như thế không được, anh nói thế thì đâu có ai giám đổi ý nửa.
.
Rốt cuộc lần bỏ phiếu cuối cùng vẫn y như vậy và bạn Nguyễn-Bá-Khoa vẫn xử lý trưởng ban Đại diện, không đúng ý Hà-Bay. Sự mâu thuẫn ngấm ngầm kéo dài vài tuần sau bùng nổ khi Lê-Bá-Khoa dùng lời lẽ thô lỗ nhục mạ tôi, gây ra một vụ thách đấu, rồi dẫn đến kết quả y như lúc tôi đấu nhau với Võ-Ngọc-Chiếu 65 trên quân trường Quang-Trung cùng năm đó. Qua ngày sau, L.B.Khoa ngồi uống nước ở quán cốc sau trường với đồng bọn, cái miệng sưng chù dù! Tôi hối hận vì đã trúng bẩy đi vào con đường bạo lực ngoài ý muốn.
.
Sau khi rớt tốt nghiệp thoại kịch, tôi đã bỏ một năm 68-69, vì nhiều lý do: chiến cuộc, Quân Sự Học Đường, bị nứt xương chân hai lần, đi làm cho DMJM...Đến niên khóa 69-70 tôi mới trở lại ghi tên học lại năm thứ tư. Lúc trở lại đây, tôi không còn thấy Nguyễn-Tiên-Quang KT66 nửa, chắc Quang đã tốt nghiệp thoại-kịch rồi nhờ theo băng H.T.Miên, hoặc bỏ cuộc vì việc học bên KT quá nặng? Việc N.T.Quang K6 theo phe H.T.Miên, Hà Bay K1, Lê-Văn-Hiểu K5, Lê-Bá-Bay K6*, Lê-Văn-Tần* K7...tôi cho rằng giống như trong kịch Bác sĩ Faust (Doctor Fautus) bán linh hồn cho quỷ, cuả Christopher Marlowe ( khoảng 1590). Trong một lúc bực bội vì thấy Q. chạy theo phe kia, tôi đã dùng lời lẽ nói nặng Q*. và dù Q. học sau một năm tại trường KT, tôi đã bỏ ý định nhận Q. làm nègre cho tôi, tiếp tục chế độ patron và nègre với Phạm-Việt-Cường 66, vả lại, tôi cũng không có gì hấp dẩn về chánh trị đối với Q. tại trường KT thì phải?
.
Hoàng-Trọng-Miên
.
Tôi học với H.T.Miên càng lâu càng không thích ông vì ngoài tánh bê trể, thiên vị, ông hết sức khó chịu, trong 5 năm trời học với ông, tôi, và kể cả các bạn đồng học hoàn toàn không nói gì với ông về các tác phẩm cuả ông, đầu tiên là bộ Việt Nam Văn Học Toàn Thư, rồi vụ xì-căng-đan vì quyển sách này mang tiếng chép lại cuả một tác giả miền Bắc*, sau đó là tiểu thuyết “Đệ Nhất Phu Nhân” cuả ông. Nên nhớ năm 1967, sau khi truyện “Đệ Nhất Phu Nhân” được đăng báo và xuất bản, ông H.T.Miên nổi tiếng như cồn, thật ra trước đó ông đã viết sách, chuyển dịch rất nhiều kịch ngoại quốc ra Việt Văn, được các hảng phim Pháp sang VN mời làm cố vấn*...từ đó tôi có cảm giác ông rất tự tôn, tự đại. Riêng tôi, tôi quan niệm: người văn sĩ có hoàn toàn tự do sáng tác, việc ông lấy những nhân vật đầu nảo trong chế độ VNCH ra để biạ thành một truyện tiểu thuyết, là vì chế độ tự do cho phép ông làm điều đó, trong khi những người phiá bên kia thì ông không giám đụng tới, vì đụng đến là bỏ mạng hoặc giả ông thiên về phiá bên kia? Tôi chỉ nhận thấy ông còn một chút liêm sĩ tôn trọng được nguyên tắc viết truyện dã sử cận đại, là ông đã không dùng những tên thật ngoài đời, ông chỉ dùng những tên đã sửa lại như Tổng Thống Ngô-Đình-Chậu, ông Cố Vấn Ngô-Đình-Nhược, bà Trần-Lệ-Thu..v..v.., vì những hành động và lời nói cuả các nhân vật này đều do ông sáng chế ra, chỉ những hạng người cực kỳ thất học, hoàn toàn u tối về văn chương mới giám lấy truyện này cuả ông sưả lại cho đúng với tên thật ngoài đời, rồi cho in lại hòng câu khách bình dân và mong dân chúng nghĩ đó là sự thật!
.
Tôi chỉ bất mãn ông, khi nghe một bạn học thuật lại lời ông nói trong lúc tôi không có mặt rằng:
- Giọng Nam chỉ để đóng cải lương, thoại kịch phải nói bằng tiếng Bắc nghe mới được!_ Mặc dù ông là người Huế nhưng ở ngoà Bắc lâu năm*, tôi đã soạn sẵn một bài diễn văn để lúc nào có dịp sẽ nói với ông:
.
.
Hình chụp sau khi khoá chúng tôi diễn vở Người Bệnh Tưởng của Hoàng-Trọng-Miên phóng tác theo Le Malade Imaginaire của Molière tại sân khấu của trường QGAN & KN Sài Gòn, đêm 3/4/19 66. Tôi đứng sát bên trái (1), một học viên ca kịch (2), Huỳnh-Bang-Gia(3), chị Minh khoá3 th.k. (4), Đồng-Công-Quan (5), một chị học viên ca kịch tham gia vở kịch vì thiếu vai nữ (6), Lê-Văn-Hiẻu (7) nhạc trưởng Nguyễn-Khắc-Cung (8), H.T.Miên (9)và con trai, ...Hoàng (10), N.T.Thanh-Tiếng (11), Nguyễn-Trọng-Tài 12), anh ? khoá 2 th.k., sát bià phải là bà H.T.Miên và cô con gái lớn Hoàng-Kim-Uyên cùng 2 em, chỉ 5 năm sau cô bé này trở thành Á Hậu.
.
“ Như các thầy dạy, kịch là tượng trưng, diễn viên mượn vài câu nói cuả nhân vật trong kịch bản để diễn tả nên một câu chuyện. Người Mỹ đóng kịch cuả Pháp dịch ra tiếng Anh thì bắt buộc phải nói tiếng Pháp sao? Hoặc người Pháp diễn kịch cuả Anh dịch ra tiếng Pháp thì phải nói tiếng gì? Giữa tiếng Mỹ và tiếng Anh, một vở kịch Anh diễn tại New York phải nói giọng Cambridge chăng? Theo Thầy tiếng nào hay hơn? Như vậy, một vở kịch viết về một gia-đình nông dân ở Đồng-Tháp-Mười phải nói tiếng gì, thưa Thầy?”.
.
Vì ông không lập lại điều này nên tôi không có cơ hội đọc bài diễn văn kia, tôi vẫn còn ấm ức, cộng thêm tánh chọc ghẹo, làm trò cho các bạn cười từ bên KT đem qua nên đợi dịp để trêu ông chơi, trong lúc ông đạo diễn vở Giòng họ tội lỗi phỏng theo Les Frères Kalamazov, sau khi tôi thử diễn một đoạn, ông lập tức chạy lên sân khấu, vừa đi từ cái trường kỷ phía phải sân khấu qua phía trái, vừa hằn học nói với tôi:
-Anh phải đi như thế này mới đúng!_ H.T.Miên vừa gầy vừa cao, tay chân dài nên bước đi cuả ông là sãi, người gập ra phiá trước theo mỗi bước. Tôi lập tức gài nút cổ aó và hai cổ tay aó lại, kéo áo ra khỏi quần cho giống hệt cách mặc cuả ông và bước cà sãi, cà sãi, người thì cà gập cà gập, bài học quan sát cách đi rồi bắt chước theo được tôi áp dụng ngay lập tức làm các bạn đồng học không nhịn được cười, nhưng tất cả không giám cười ra tiếng, ông ngồi dưới hàng ghế đầu, mặt xanh như tàu lá, lặng thinh. Một người danh tiếng như ông bị một thằng vô danh tiểu tốt, đã vậy còn ngông cuồng như tôi chọc ghẹo, do đó, ông đánh rớt tôi là lẽ dĩ nhiên. Hà Bay theo phe ông và cánh này tha hồ làm mưa làm gió trong ngành thoại kịch tại đây. Phe H.T.Miên không những làm mưa làm gió đối với học viên, tôi biết rõ ràng ông cũng không ưa GS Đinh-Xuân-Hoà và dường như GS Vũ-Khắc-Khoan, mặc dù là trưởng ngành kịch nghệ, tức là cả 4 bộ môn thoại kịch, ca kịch, hát bộ và hát chèo, ông rất bận rộn với các giờ dạy khác khắp nơi, ông cũng có vẻ e dè cái thế lực nào đó sau lưng H.T.Miên.
.
Nhờ H.T.Miên thường xuyên đi trể hoặc vắng mặt, nên trong khi chờ đợi, tôi có dịp thưởng thức tài điều khiển dàn nhạc Đại-Hoà-Tấu Sài Gòn, của các nhạc trưởng nổi tiếng của VN thời đó: ngoại trừ ông Vũ-Thành (q.c., bác ruột của Vũ-Triệu-Tấn 64) không bao giờ lui tới trường QGAN & KN, tôi đã hân hạnh được xem và nghe các ông Nguyễn-Khắc-Cung, Nghiêm-Phú-Phi, Đỗ-Thế-Phiệt và Nguyễn-Phụng (tất cả các vị kể đây đều đã quá vãng). Qua các bản nhạc Đại-Hoà-Tấu của các nhạc sĩ cổ điển Ân Châu, tôi rất thán phục tài điều khiển của ô. Nguyễn-Phụng, mặc dù ông không có vẻ gì là nghệ sĩ, ông cao lớn, vạm vở, hớt tóc bàn chải, đeo kiếng, để râu mép. Tôi thích thú với ô. Nghiêm-Phú-Phi khi xem ông điều khiển một Ban Nhạc Đại-Hoà-Tấu gồm hơn một trăm nhạc sĩ giao hưởng giữa hai loại đàn cổ điển Tây phương và Việt Nam. Ngoài ra nhờ có mặt hàng ngày tại đây nên biết trước lịch trình các buỗi trình diễn của các ban nhạc Thính Phòng đến từ Tây Đức hay Ý..v..v.., để đi xem và mời bà chị hoặc người yêu đến xem ( người Pháp chỉ trình diễn tại Trung Tâm Văn Hoá Pháp). Cám ơn sự bê trể và vắng mặt không thông báo của H.T.Miên, lúc đó chúng tôi nói nhỏ với nhau không biết thầy Miên có lãnh luôn tiền các giờ vắng mặt hay không? Nay nghĩ lại nhờ ông, nếu không, chắc có lẽ tôi cũng không làm sao cải lại được với lời của những kẽ xấu miệng nói rằng, Miền Nam chẳng bao giờ chơi nhạc cổ điển Tây phương cả*.
.
Trong khi ông H.T.Miên không ưa học viên người Nam, trái lại tất cả giáo sư gốc Bắc, là những vị GS cho tôi cảm giác sống tiếp nối giai-đoạn văn vật ngoài Hà Nội trước năm 1954, không có đến một người kỳ thị như ông, các thầy đều nổi tiếng như Vũ-Khắc-Khoan (q.c.), Vi-Huyền-Đắc (q.c.), Tam-Ích (q.c.), Nguyễn-Sỹ-Tế (q.c.), hoạ-sĩ Thái-Tuấn (q.c.), các gs kiêm đạo diễn như Đinh-Xuân-Hoà và Nguyễn-Ngọc-Liên lại rất thương mến tôi.
.
Vũ-Khắc-Khoan và các vị giáo sư khác
.
Ông Vũ-Khắc-Khoan, người khá thấp, độ chừng 1m 55, mặt tròn, người cũng tròn nhưng vạm vỡ, vai rộng, bước đi rất chắc, đặc biệt ông để tóc rối bời, dợn só́ng, trông giống như Beethoven. Ông coi rất nghiêm nhưng thật sự ông rất hiền, bình dân, rộng rải, xuề xoà, có vẻ như tửu lượng rất mạnh. Ông không dạy nhiều giờ như các GS khác tại đây, nhưng người ta đoán ông có một nguồn lợi tức rất dồi dào, ông dạy ở Đại HọcVăn-Khoa, ông có giờ tại Viện ĐH Đà Lạt, Viện ĐH Cần Thơ, người ta thuê ông sửa kịch bản, viết bài cho các báo, tập san, trả tiền bản quyền cho các tác phẩm cuả ông..v..v..Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông
.
.
Vũ-Khắc-Khoan, một tác giả lớn trong văn học Việt Nam thế kỷ 20
.
nhưng thông thạo Kinh Dịch và chấm Tử Vi rất giỏi, khi chúng tôi hỏi ông:
- Thưa thầy, vì sao thầy không tiếp tục hành nghề kỹ sư canh nông nửa?
- Tôi đã tự chấm Tử Vi, tuy tôi học về canh nông nhưng số tôi lại thiên về Văn Học!
.
Lúc chúng tôi mới vô năm thứ I, chờ ông H.T.Miên chưa đến hoặc không đến, nên ngồi sau lưng ông trong thính đường, xem ông điều khiển các đàn anh chị đã tốt nghiệp rồi, tập dợt vở Thành-Cát-Tư-Hãn để chuẩn bị trình diễn. Vở này được ông viết cách đó chỉ có 3 năm, do Trần-Quang trong vai Thành-Cát-Tư-Hãn, Vũ-Tùng trong vai Sơn-Ca, Bích-Thuỷ trong vai Công Chuá Tây Hạ, hai anh học cùng khóa 1 (tôi quên mất tên) trong vai hai tướng Dương-Bân và Thúc-Bột-Đào, Hà-Bay trong vai Ông già Tây-Hạ...và các lớp sau giữ các vai phụ. Chúng tôi say mê theo dõi từng lời nói, từng cử chỉ cuả mỗi vai, mỗi lần thầy Khoan ngắt lại để chỉ dẫn, cho ý kiến hay phê bình...đó là những bài học tại chỗ rất quý giá. Đêm trình diễn, chúng tôi rất sung sướng được tham gia lo sân khấu, tiếp tân...và cuối cùng được làm khán giả ngồi ở cuối rạp vì phải nhường chỗ cho quan khách.
.
Chúng tôi hết sức thán phục các đàn anh chị này và trong một lần học với thầy Khoan, tôi bày tỏ sự thán phục đó, câu trả lời cuả thầy làm tôi ngạc nhiên và ghi nhớ cho đến nay:
- Hiện nay thật khó tìm nỗi ai có thể giữ được vai Thành-Cát-Tư-Hãn, Trần-Quang được cái lợi thế là cao lớn, to khoẻ, tiếng nói rõ ràng, có sức đảm nhiệm trên sân khấu suốt 3 tiếng đồng hồ, thế nhưng nó (ông nói theo kiểu miền Nam) không lột tả được vai cuả một người vừa là vua, vừa là tướng, thống lãnh hàng vạn quân binh đi đánh sang tận Âu Châu. Trần-Quang đóng vai tướng cướp thì được*!
.
Chúng tôi cũng được nghe anh Mô nói vở Thành-Cát-Tư-Hãn đã được dựng lại tại Đà-Lạt và anh đã đóng vai Sơn-Ca , nhưng không biết rõ chi tiết, sau đây là lời kể của bạn Nguyễn-Thúc-Soạn KH64, giảng-nghiệm-viên của VĐH Đà Lạt niên khóa 69-70: “Tại Viện ĐH Đà Lạt, thầy Khoan đã dựng lại vở Thành-Cát-Tư-Hãn với ban kịch Thụ Nhân* và đã tìm được một người diễn viên đúng ý của ông đảm nhiệm vai Thành-Cát-Tư-Hãn là Uông-Bình-Minh* (q.c.), người gốc Mỹ Tho, anh là SV đang học chứng chỉ Chánh Trị Kinh Doanh, tuy không theo học môn thoại kịch của trường QGAN & KN, nhưng anh đã đóng xuất sắc vai Thành-Cát-Tư-Hãn và anh Đinh-Ngọc-Mô* (q.c), từ Sài Gòn lên, thủ vai Sơn-Ca. Vở kịch đã được trình diễn tại Đại-Thính-Đường Spellman cuả VĐH Đà Lạt với trên 800 khán giả. Sau khi hạ màn, cha Viện Trưởng Nguyễn-Văn-Lập đã thưởng cho ban kịch Thụ Nhân 50 ngàn đồng, thầy Khoan cũng thưởng liền tại chỗ 50 ngàn. Với số tiền khá lớn này, ban kịch sau khi khoản đãi tất cả anh chị em trong ban, số tiền còn lại đã được xử dụng để thành lập một quán cà phê ở Đà-Lạt, giữa đường VĐH Đà-Lạt và trường Buì-Thị-Xuân, sau đó là nơi tập họp của những người đã có tên tuổi như Trịnh-Công-Sơn, Khánh-Ly, Nguyễn-Đức-Quang... và cũng là nơi xuất phát cuả cặp Lê-Uyên Phương thời kỳ đó..v..v..”
.
Thầy Khoan đôi khi có dạy về diễn xuất nhưng phần chánh ông dạy về lý thuyết kịch nghệ, có một lần, ông nói về bí quyết thành công của tác giả Kim-Dung. Những lời giảng của ông vẫn còn tiềm tàng trong trí não của tôi và vẫn còn được tôi áp dụng mỗi khi viết lách, kể cả khi viết quyển trường thiên hồi ký mà bạn đang đọc này nửa, mặc dù hồi ký này là sự thật chớ không phải sản phẩm của trí tưởng tượng và mục đích không phải để tìm một sự thành công đối với khoảng 40 bạn đồng nghiệp cũ.
.
Ông Vi-Huyền-Đắc không những hiền từ, ông còn vui tánh nữa, ông hay kể lại những giai thoại vui thời ngoài Bắc cho chúng tôi nghe. Để trả lời một câu hỏi cuả một người bạn trong lớp aí ngại vì giờ dạy quá ít, thầy làm sao đũ sồng? Câu hỏi quả thật là không tế nhị cuả một SV mới 20 tuổi ngoài nhưng biểu lộ một lòng thương cảm và lo lắng. Ông không phiền chút nào, vừa cười vừa nói:
.
.
Nguyễn-Thị-Thanh-Tiếng, Đồng-Công-Quan (xa trong góc), LCQ. trong vở Giòng họ tội lỗi
của Hoàng-Trọng-Miên diễn trên sân khấu trường QGAN & KN Sài Gòn, năm 1967
.
- Ồ, các anh đừng lo, mấy tờ báo thuê tôi dịch tiểu thuyết Kim-Dung và họ trả tiền cũng tạm sống được.
.
Tôi vốn là độc giả trung thành cuả Kim-Dung nên biết có đến hai dịch giả: Tiền-Phong Từ-Khánh-Phụng và Hàn-Giang-Nhạn, lập tức hỏi ông:
- Thưa thầy, có phải thầy lấy bút hiệu là Tiền-Phong Từ-Khánh-Phụng không?
Ông cười khà khà:
- Điều này bí mật, không thể nói được!_ Tuy ông không nói, tôi vẫn nghĩ là tôi đoán đúng vì hai chữ Tiền Phong, chắc từ chữ Thanh-Niên Tiền Phong hay Avant Garde thời Pháp thuộc từ trước 1954 ra.
Hoạ-sĩ Thái-Tuấn (q.c.) phụ trách môn trang trí sân khấu, có nhân dáng giống ông V.H.Đắc, người cao cao gầy gầy, có vẻ như đã từng theo phong trào đi gặp “Phù Dung Tiên Tử” thời Tự Lực Văn Đoàn thuở trước,. Vì ông tốt nghiệp từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, cũng là tiền thân cuả trường Cao Đẳng Kiến Trúc, cho nên ông rất có cảm tình với tôi khi biết được tôi đang học KT. Môn trang trí sân khấu là môn nhiệm ý, tức khỏi phải thi, hơn nửa, sẵn nhờ lợi thế học tại trường KT, tôi có đũ đồ nghề để làm mô hình hay vẽ phối cảnh mỗi khi ông yêu cầu, do đó các bạn đồng học sau giờ đầu đã bỏ chạy hết, chỉ còn có mình tôi theo học môn này với ông. Cảm giác thật khó tả khi ngồi đối diện một thân một mình với người hoạ-sĩ nổi tiếng từ trước 1954 và cứ như vậy trong suốt không biết bao nhiêu ngày trong năm đó!
.
Chúng tôi lại được học giờ Kịch Thơ với các bà Bích Thuận và Hồ Điệp là những người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ miền Bắc trước 1954, riêng bà Hồ Điệp còn phụ trách giờ Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn do thi sĩ Đinh-Hùng(q.c.) làm trưởng ban lúc đó. Tôi còn nhớ, để dạy ngâm thơ, bà đã xử dụng bài thơ Tình Tuyệt vọng cuả Khái-Hưng dịch lại bài “Un Secret” cuả Félix Arvers người Pháp, mà nhiều người cho rằng còn hay hơn tất cả các bài dịch khác và còn hay hơn cả bản chánh nửa! Tưởng tượng một thằng Nam kỳ quốc chánh tông như tôi, chỉ hát nhạc Rock Mỹ và đọc thơ mới thí dụ bài Moonlight Drive, 1967 cuả Jim Morrison, sau đó được Jim và Ray Manzarek, tay đàn orgue cuả The Doors phổ nhạc nghe rất hay và
nên thơ:
Let’s swim to the moon
Let’s climb through the tide
Penetrate the evenin’ that the
City sleep to hide...
.
Bài thơ với lời lẽ đẹp, ý thơ tân thời, cũng như vài năm sau đó tôi mê những bài thơ rất mới mẻ của Nguyễn-Tất-Nhiên, nay trước mặt bà Hồ Điệp, là một người đàn bà đã trên 40 nhưng vẫn còn rất đẹp, chúng tôi phải ngâm theo giọng Bắc cuả bà, bài thơ vốn đã từng học thuộc lòng lúc ở trung-học:
.
Lòng ta (í a...) chôn một khối tình (a..ả..a...)
Tình trong (í a...) giây phút mà thành (a…) thiên thu (a..ả..a...)
Tình tuyệt vọng (ỉ a...), nỗi thảm sầu (ỉ a...),
Mà người (í a...) gieo thảm (a…) như hầu không hay (a..ả..a...)
.
Sau câu đầu, tôi rán nín cười và càng cố gắng, càng không nhịn được nửa, phát lên cười rũ rượi và cả lớp cùng cười theo như điên cuồng không thể nín được, làm bà Hồ Điệp cũng phải cười như điên theo chúng tôi. Sau đó, chúng tôi nói lại về cách ngâm này với thầy V.K.Khoan, ông nói:
- Đó là “ca” thơ, chớ không phải là “ngâm” thơ. Nếu đúng gọi là ngâm thơ, ta chỉ cần kéo dài chữ cuối cuả câu thơ mà thôi.
.
GS Đ.X.Hoà theo lời yêu cầu cuả tôi, đã chịu khó chỉ riêng cho tôi diễn vai Minh (Dmitri Karamazov*) rất khó tại nhà ông ở đường Phạm-Ngũ-Lão, SG và sau đó, năm 1971, đã mời tôi giữ một trong ba vai chánh trong một vở kịch (tôi quên mất tên) cùng với Trần-Quang và chị Đỗ-Anh. Đây cũng là một kịch bản phỏng theo Hamlet cuả Shakespeare trong đó chị Đỗ-Anh, người Nam đóng vai mẹ tôi và Trần-Quang giữ vai người yêu mới cuả bà sau khi hạ sát người chồng cuả bà mà bà không biết. Sau khi ráp lại đọc thử kịch bản tại phòng khách lớn nhà ông, gs Đ.X.Hoà cười thoả mãn:
- Chỉ cần nghe không thôi, thật là sướng tai vô cùng!_Tôi không nói với ông là đã học được cách phát âm,
điều khiển và diễn xuất bằng giọng nói với bà đạo diễn Mỹ Barbara Owens trong 3 tháng trời trước đó tại Hội Việt Mỹ._ Nên nhớ, Trần-Quang, nói tiếng Bắc, còn chị Đỗ-Anh và tôi nói giọng Nam, ông nghe vẫn thấy hay như thường. Trần-Quang đứng lên chống nạnh cười, phê bình:
- Người với tướng tá, giọng nói như thế mới xứng đáng trả thù tôi chứ!
.
.
Chị Bằng tức Đỗ-Anh, khoá 2 thoại kịch
.
Giáo sư đd Nguyễn-Ngọc-Liên* chắc có lẽ nhìn thấy tôi ăn ảnh hay cách diễn xuất hạp với ông sao đó, đã bảo tôi chở ông đến Trung Tâm Quốc Gia Điện Ảnh, đường Thi-Sách, sau lưng Cty Điện Lực Sài Gòn, để giới thiệu tôi cho ông Giám Đốc Trung Tâm Đ.A., sau chừng nữa tiếng nói chuyện, ông này từ chối khéo khiến trên đường chở gs Ng.Ng.Liên trở về trường, tôi có cảm giác như ông dẫn “chị em ta” đi chào khách, khách không ưng vậy!
.
Trường hợp kỳ thị cuả H.T.Miên là cá thể vì các đạo diễn người Huế như đd Lê-Mộng-Hoàng và giáo sư đd Thân-Trọng-Kỳ hoàn toàn dễ dãi và thân ái với tôi. Ông Lê-Mộng-Hoàng tuy không có trong ban giảng huấn cuả trường, nhưng hay đến để tìm phụ diễn, vì VN không có các công ty phân phối vai trò cho
phụ diễn (extras casting). Ông mời chúng tôi thủ những vai phụ cho một phim chiến tranh, quay tại quân trường Quang-Trung. Ông còn mời riêng tôi đến sân quay phim Chiều Kỷ Niệm (1969) do ông đạo diễn tại một villa ở Tân-Định, trong đó Thanh-Tú đóng vai một người hoạ sĩ yêu người đẹp Thẩm-Thuý-Hằng.
Lúc tôi đến nơi nhìn thấy trên giá vẽ bức hình T.T.Hằng được ai vẽ sẵn bằng than chì, tôi nói với đd
.
.
Đạo diễn Lê-Mộng-Hoàng
.
L.M.Hoàng rằng không được giống lắm nên ông nói:
- Anh là KTS, anh biết vẽ mà, vậy nhờ anh sửa dùm lại cho giống đi_ T.T.Hằng cũng năn nỉ:
- Anh làm ơn sửa lại dùm đẹp đẹp vì em cũng thấy không được giống lắm_ tôi nhìn quanh không thấy tác giả bức hình đâu, hỏi ra thì tài tử Thanh-Tú cao lớn bảnh trai tuy đóng vai hoạ sĩ nhưng không biết vẽ, anh chỉ cười với tôi và cũng đồng ý để tôi sửa lại, do đó tôi đã yêu cầu T.T.Hằng đứng trước giá vẽ, tôi nhìn kỹ cô, rồi dùng gôm chì xoá các chỗ không giống, vẽ lại. Tôi nhận thấy với kinh nghiệm nhìn các cô nổi tiếng sexy của trường KT như Kim-Sa 65, chị Yên 64, Mai 66, Lâm-An 66... cùng các pho tượng cổ của trường, đối với chiều cao, bộ ngực, vòng eo và hông thì cặp mông của cô là thật chớ không phải bơm, nghĩ như thế thôi chớ tôi thật sự không có phương tiện và dịp may để kiễm chứng, trừ phi nếu tôi muốn người đẹp Bình Dương cho một cái tát tay vô mặt! Lúc ấy tôi nghĩ nếu ông hoạ sĩ thật có mặt ở đó chắc đã cho tôi một bài học khiêm tốn chớ chẳng chơi, nhưng tôi nghĩ đạo diễn tại sân quay là vua, ông L.M.Hoàng đã yêu cầu rồi chắc không sao. Sau đó tôi còn bận nhiều việc phải làm, nên kiếu từ ông L.M.Hoàng đi gấp.
.
.
Thẫm-Thuý-Hằng (không có thụ huấn lớp kịch) và Trần-Quang, khoá 1 thoại kịch
.
Gsđd Th.Tr.Kỳ laị mời một mình tôi đến sân quay phim Chờ Sáng (1969). Tại đây, cô Nguyễn-Thị-Hường*, lúc ấy cũng là gs dạy môn hoá trang cho chúng tôi tại trường QGAN&KN, cô quá bận với nhiều vai, đã nhờ tôi dùng bông gòn thấm mồ hôi trên mặt cuả tài tử Lê-Quỳnh, làm xong xuôi, gs T.T.Kỳ laị giới thiệu tôi cho nữ tài tử Kiều Chinh. Vì Kiều Chinh đã được trang điễm xong, nên chị ngồi đó đợi đến màn cuả chị, tôi đành ngồi xuống kế bên. Mặc dù trước đó đã hân hạnh gặp Thẩm-Thuý-Hằng, vốn là một trong những nữ tài tử đẹp nhất nước, nay trước mặt người đẹp khác, tôi hết sức bối rối và vô cùng lúng túng, một người trẻ mới có 24 tuổi, vô danh tiểu tốt, chỉ mới đóng có vài vai phụ cho một phim và vài vở kịch TiVi, nay ngồi tiếp chuyện với một nữ đại tài tử cuả VN! Hôm đó tôi đã cố ý mặc một chiếc aó sơ mi
.
.
Nữ tài tử Kiều Chinh trước năm 1975
.
ngắn tay xăng lên và một cái quần jean đen cho giống vai Jett Rink mặc để đào tìm dầu trên giàn khoan do James Dean thủ diễn trong phim Giant (1955), do đó chắc có lẽ tôi cũng bối rối như lúc James Dean gặp Elizabeth Taylor lần đầu tiên tại sàn quay phim này vậy. Cũng như Thẩm-Thuý-Hằng, Kiều Chinh xưng “Em” với tôi ngọt xớt! Ngoài sự đẹp đẻ và diụ dàng, mũi chị cao, thẳng như một người đàn bà tây phương*, Kiều Chinh nói chuyện rất tự nhiên, giọng nói thật sang trọng và thân mật khiến tôi cũng bớt khớp và đặt nhiều câu hỏi để chị trả lời, chị thuật cho tôi nghe kinh nghiệm làm việc với người ngoại quốc, cuộc thăm viếng các phim trường của các hảng phim lớn bên Nhật như Toho và Daiei..., đến khi đạo diễn cho người mời chị vào quay thì tôi cũng cáo từ chị, tổng cộng Kiều Chinh cũng đã mất hơn 1 tiếng đồng hồ nói chuyện với một thằng SV trẻ khờ dại không ai biết như tôi! Như vậy, Việt Nam có ba người đẹp tài sắc song toàn, tôi đã hân hạnh gặp được hai! Thời ấy, tôi không giám có ý nghĩ nếu mình được gặp Thanh-Nga nửa thì đũ bộ ba luôn.
.
.
Đạo diễn Thân-Trọng-Kỳ tại Mỹ
.
Tôi không có duyên nợ với đạo diễn Lê-Dân, hai lẩn ông vô trường QGAN & KN để tìm tài năng mới, hay ông ra thông cáo tuyển diễn viên cho vai chánh, tôi biết được một lần. Vào năm 1970, lúc tôi còn có mặt tại trường này, ông đã chọn một học viên ca kịch tên Huỳnh-Thanh-Trà đê thủ vai chánh trong Loan Mắt Nhung, vai nữ do Thanh-Nga đóng, phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn-Thụy-Long xuất bản năm 1967, từ đó đã đưa tên tuổi Trà lên ngang hàng với các tài tử chuyên nghiệp tức khắc. Tôi tự biết con người mình, chỉ có cặp “mắt vải bố”, nên dù đọc thông cáo, cũng không tham gia cuộc tuyển chọn (audition). Ông Lê-Dân chọn Huỳnh-Thanh-Trà vì Trà có cặp mắt to, lông mi, lông mày rậm, chỉ có vậy thôi. Tôi không được dịp xem phim này nhưng sau đó, nhờ nổi tiếng, Trà đã được nhiều ban kịch TV mời đóng vai chánh, trong đó có ban kịch Bích Thuận, quay tại sân quay của đài số 9, đường Hồng-Thập-Tự, gần góc Cường Đễ, trong kịch đó, tôi giữ một vai phụ. Nhờ làm việc chung, tôi được quan sát Trà tai chỗ, dù trước đó tôi có gặp Trà thường xuyên tại trường QGAN & KN, ngoài cặp mắt như đã nói trên, Trà tuy cao lớn nhưng có vẻ như bị gù lưng, đã vậy, cái quần túm cho thấy tương phản với cái đầu bự chần dần với mớ tóc dày, có vẻ ù lì và không cởi mở, lúc nào nghỉ, chờ đợi chuyên viên chuẩn bị máy móc hay giải lao, Trà đi tìm một góc riêng để nằm ngủ. Từ nhỏ đến lớn trong cuộc đời, tôi đã từng thấy, hoặc quen biết với không biết bao nhiêu tay du đảng thứ thiệt. Thuở nhỏ tôi ngụ tại đường Huỳnh-Khương-Ninh, đã từng trông thấy hai Trùm du đảng thứ thiệt tại đây là Sáu Lẹ và Sáu Nhỏ trong hẻm Phan-Tôn, năm 15, 16 tuổi cũng giao du với băng Trùm du đảng Phú-Nhuận là Điền với hai anh em Cẩu và Ngầu, song song đó, trong trường trung-học Võ-Trường-Toản cũng có những tay khét tiếng như Oanh, Thinh, Tâm..., lớn lên, tại trường KT cũng có Trung Sún KT66, Trùm du đảng Gia-Định. Tất cả cho thấy thế nào là một tay du đảng, khi trông thấy H.T.Trà trong kỳ chiếu quảng cáo, tôi thấy Trà không có vẻ gì anh chị, Trà có thể đóng vai du đảng nhà quê hay cao bồi vườn, chắc có lẽ được!
.
Trà có căn bản ca kịch nên diễn xuất theo lối cải lương, chẩm rãi và tay chân phải ra bộ theo lời nói. Tôi đã từng đứng ngoài lớp ca kịch để quan sát các ông Năm Châu, Duy Lân dạy, nên có cảm giác các diễn viên ca kịch bị lệ thuộc bởi lời ca, nhịp hát, thí dụ bị thương nặng, có thể kéo dài thêm mấy phút để hát cho hết 6 câu trước khi tắt thở, nên khó cho ta cảm giác như thật được. Vì lẽ đó bên Mỹ, ta không hề thấy các diễn viên Opéra trở thành tài tử Điện Ảnh hạng nhứt bao giờ như trường hợp Huỳnh-Thanh-Trà. Tóm lại, phim Loan Mắt Nhung thành công là nhờ quảng cáo, dựa theo một quyển tiểu thuyết nổi tiếng, cặp mắt của Trà và ban nhạc tựa phim của Huỳnh Anh do Elvis Phương hát rất thịnh hành, đi đến đâu cũng nghe, đến nổi phát nhàm lỗ tai!
.
Đường vắng thưa bước chân buồn âm thầm,
Đèn khuya hiu hắt bóng điện câu...
Đèn khuya hiu hắt bóng điện câu...
.
Năm 1973, lúc cuộc đời tôi bắt đầu gắng bó với các quân trường, đd Lê-Dân lại chọn ...Thêm, khóa 8, 9 gì đó, thoại kịch và Bạch-Liên, ca kịch, cả hai đều là học viên của trường QGAN & KN để thủ hai vai nam nữ chánh trong phim Hoa mới nở quay bằng cinémascope và màu. Phim này, ngược lại đã được một số đông SV Kiến Trúc tham gia trong những vai phụ hoặc làm décor*.
.
Cái điếu cày của thi sĩ Đinh-Hùng
.
Khoảng trước Hè năm 1967, tôi chán ngấy mấy đứa phe đảng trong lớp nên hay chơi với các bạn lớp sau, trẻ hơn vài tuổi, có một hôm các bạn đó rủ nhau qua nhà một bạn của chúng cùng lớp tên là Đinh-Dũng chơi, Đinh-Dũng là một thanh niên người Bắc, trẻ, cao ráo, hơi gầy, tóc dợn sóng, ôm sát da đầu, chãi về phía sau để lộ một vầng tráng cao coi rất thông minh, người nhũn nhặn, thanh lịch. Tôi thối thoát vì nghe ở xa quá, tuốt bên kia cầu chữ Y, nhưng một thằng bạn trẻ, Minh* râu, hỏi tôi:
- Chớ bộ anh nghe tên nó không thấy có gì lạ sao?
- Ờ, không, tao đâu thấy có gì lạ đâu?
- Nó là con trai của thi sĩ Đinh-Hùng đó!
- Trời ơi, hồi nào đến giờ tao không để ý, vậy thì dĩ nhiên, tao đi chớ.
.
Chúng tôi độ 4, 5 đứa, kéo nhau đi, qua khỏi cầu chữ Y, trên con đường đi vô lò heo Chánh Hưng quẹo trái chừng 50m thì đến nơi. Căn nhà hai tầng, chung quanh cây cối rậm mát, nhà của Đinh Dũng ở tầng trên nên chúng tôi bước lên cầu thang từ ngoài bên hông giữa toà nhà, bước vô nhà, tôi quan sát chung quanh thấy đây là một cái loft rộng rãi thoáng mát với các phòng khách, phòng ăn... và có vẻ lịch sự nghiêm trang với một bộ trường kỷ, các bộ bàn, ghế, tủ sắp xếp ngay hàng thẳng lối, đều đánh vernis màu nâu. Ông Đinh-Hùng (q.c.) không có nhà là một việc làm tôi rất tiếc cho đến nay*, tôi đã không được hân hạnh diện kiến một nhà thơ lừng danh từ trước 1954, làm sao quên được những câu như:
.
Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài
Sầu trên phím đàn, tình vương không gian
Mây bay quan san, có hay?
Sầu trên phím đàn, tình vương không gian
Mây bay quan san, có hay?
.
Trên bàn ăn có bày một bộ đồ hút thuốc lào, Dũng cười hỏi:
- Có bạn nào muốn hút lào không?
Tôi nói: - Có tôi, xưa nay tôi chưa bao giờ hút thuốc lào, Dũng có thể chỉ dùm anh được không?
Dũng chỉ tôi xong, nó vò một bi để vào bình lọc, tôi hút hết một hơi dài, ém lại rồi nhả khói ra từ từ theo lời chỉ dẫn, tôi cảm thấy phê không thể tả, cái đầu hình như bị quay vòng vòng, nếu không đang ngồi trên ghế, chắc có lẽ tôi đã té bỗ nhào xuống đất! Tai tôi hơi ù ù, nhưng vẫn còn nghe mấy đứa bạn trẻ cười chộ ầm ỉ. Tôi hết sức cảm động vì đã được hút cái điếu cày của một thi sĩ đã từng sáng tác không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt vời và ông còn viết lách rất nhiều, kể cả ba vở kịch thơ mà các giáo sư ḳịch có nói đến.
.
(Còn tiếp)
.
.
chú thích:
.
* bà Tỵ: giáo sư dương cầm, tên thật là Thái-Thị-Oanh Louisette, vợ của ông Nguyễn-Văn-Tỵ , bộ trưởng thời Thủ Tướng Lê-Văn-Hoạch (Quốc Gia), bà đã từng theo học tại Conservatoire National Supérieur de Musique de Paris và đã chiếm giải 1er Prix tại đây, trở về Sài-Gòn trước 1939. nhà ở gần góc Pasteur-Phan-Thanh-Giản. Em gái bà là Thái-Thị-Liên Marcelle cũng học iại trường nói trên, nhưng sau đó theo người chồng đầu tiên tên Trần-Ngọc-Danh qua Tiệp-Khắc, nên học tiếp tại Nhạc Viện Tiệp-Khắc. Thay vì về với gia-đình ở Sài-Gòn, bà tập kết về Miền Bắc VN. Tình duyên của bà cũng rất trắc trở, có nhiều đời chồng, tái giá với ông Đặng-Đình-Hưng, bà dạy dương cầm cho con trai tên Đặng-Thái-Sơn, bà đã từng tham dự giải Quốc Tế Chopin nhưng thất bại, sau đó, năm 1980 chính Đ.T.Sơn đoạt giải đó.
.
* Đồng-Công-Quan, sau này tốt nghiệp kỹ sư Phú Thọ và Nguyễn-Trọng-Tài có tham gia nhiều lần kịch ở Cali theo lời mời của ca sĩ Thanh-Lan. Cả hai đều là bạn của Nguyễn-Trung-Lâm KT66
,
* Hà-Bay: theo Võ-Minh-Cẫm 65, Hà-Bay, mặc dù đã bị tật mắt lé, bị đánh trọng thương tại trại tỵ nạn, qua đến Mỹ trở thành một người tàn phế.
.
* Lê-Bá-Bay: con thầy bói Lê-Bá-Hòa ở Hoà Hưng, cùng xóm với Võ-Minh-Cẫm 65.
.
* Lê-Văn-Tần: được tác giả Hà-Thúc-Sinh nói đến trong quyển Đại Học Máu (1985) các trang 287, 289, 290, 291 và 292
.
* Nguyễn-Tiên-Quang KT66: May phước cho tôi, nhờ các biến động tới tấp từ tháng 4/75, Q. trở thành Ngôi sao sáng trong trường KT và quá bận rộn lập Ủy Ban điều tra Tội Ác của Mỹ Ngụy tại đây, nên quên hẳn chuyện nhỏ mọn này của tôi đối với nó.
.
* vụ đạo văn gây sôi nổi năm 1960 tại Miền Nam VN được Nguyễn-Văn-Lục, em của Nguyễn-Văn-Trung, bạn thân của Trịnh-Công-Sơn đem ra xào lại sau ½ thế-kỷ: người ta cho rằng cuốn Việt Nam Văn Học Toàn Thư của H.T.Miên, 1959 là do ông chép lại cuả Nguyễn Đổng Chi , một tác giả miền Bắc viết năm 1956. Một người nhỏ bé như tôi không thể nào hiểu nổi giữa những giả thuyết như:
- Ông Nguyễn Đổng Chi không thể xuất bản trong Nam được nên nhờ người chép lại để in trong Nam?
- Sở Phản Gián miền Bắc muốn đưa nền Văn Học miền Nam vào bẫy qua tay H.T.Miên?
- Cho rằng H.T.Miên chép lại tác phẩm của Ng.Đ.Chi , làm sao ông có được quyển sách in tại Miền Bắc năm 1956?
Nên nhớ ông Hoàng-Trọng-Miên, sau 30/4/75 khỏi phải bị đi tập trung học chánh trị như các văn-nghệ-sĩ khác tại Miền Nam, có phải vì lý do:
- 1950 ông đã từng ở trong Ban Văn nghệ Sư đoàn 320 BV? Ông trở về Nam năm 1952.
- H.T.Miên là em của Hoàng-Trọng-Quỵ biệt hiệu Thanh Nghị (không phải Lê-Thanh-Nghị), sau 30/4/75 là Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa- Chánh Phủ CMLTMNVN, giám đốc Thư Viện TPHCM.
.
* năm 1961, Hoàng-Trọng-Miên được một hảng phim Pháp mời làm cố vấn cho phim Transit à Saigon, người ta cho ông điểm hẹn là phòng khánh tiết cuả hôtel Majestic, ông đến trể 1 tiếng đồng hồ, đoàn quay phim đã đi mất. Ông lay hoay hỏi thăm, nghe quản lý hôtel nói là đoàn quay đi xuống bến Bình-Đông, ông lật đật gọi taxi đến nơi, đoàn quay đã đi chỗ khác, không biết nơi mô mà tìm!
.
* trang 21, quyển “Le Goulag Vietnamien“của Đoàn-Văn-Toại, 1979, nhà xuất bản Robert Laffont, Paris. Đ.V.Toại viết : “ Đã từ lâu lắm rồi (éternité), thủ đô Miền Nam chưa bao giờ được nghe hoà tấu nhạc cổ điển tây phương cả. Tôi đã ba mươi tuổi, cả đời chỉ có nghe được mấy ban nhạc rẻ tiền vặn ampli tối đa để chơi nhạc Pop của Mỹ” (nguyên văn từ tiếng Pháp)!
.
* ban kịch Thụ Nhân: có nghĩa là ban kịch của VĐH Đà Lạt. Sau đó Đinh-Ngọc-Mô (q.c.)mới đề nghị với thầy V.K.Khoan đổi tên ban kịch lại là Trường Giang để đi diễn nơi khác.
.
* Uông-Bình-Minh: đẹp trai cao lớn, tốt nghiệp chứng chỉ Chánh Trị Kinh Doanh tại VĐH Đà Lạt, đi Thủ Đức ra, tình nguyện đi tác chiến rồi tử trận, mặc dù anh là cháu ruột của Hoàng-Đức-Nhã.
.
* Đinh-Ngọc-Mô (q.c.): anh hay mặc bộ bà ba đen XDNT, ra uống cà-phê buỗi sáng tại khu Bàn Cờ nên thường gặp bộ ba KT64 Trương-Thọ, Nguyễn-Tất-Tống (q.c.), Nguyễn-Bá-Quyền, cũng mặc bà ba đen XDNT, do đó trở thành quen thân với bộ ba này. Năm 1968, Mô có đến trường ĐH Kiến Trúc tham dự “Đêm không ngủ”với Tống, N.B.Quyền cùng các bạn KT khác.
.
* Trần-Quang đóng vai tướng cướp thì được: lời nhận xét của ông V.K.Khoan thật chính xác, sau đó, T.Quang nỗi tiếng với vai tướng cướp Long Vân, 1979.
.
* Dmitri Karamazov: vai này do Yul Brynner diễn trong phim Les Frères Kalamazov (1958)
.
.
* cô Nguyễn-Thị-Hường: gs dạy môn hoá trang cho ngành thoại kịch, là chị bà con cuả Nguyễn-Thanh-Cần KT66.
.
* Khi về nhà nói cho bà chị nghe về cái mũi đẹp của Kiều Chinh, bà chị nói đó là mũi sửa!
.
* Minh Râu: khóa 7 th.k., gốc Vĩnh-Long, còn có biệt hiệu là Trần-Minh Khố Chuối, có đóng trong phim Cúi mặt với tài tử hồi chánh Cao-Huynh. Tại sân quay phim này ở một villa tại Bãi Trước, Vũng Tàu, 1971, ngoài Minh Râu, tôi có gặp N.T.Quang 66 làm Phụ tá đạo diễn cho đd nào tôi đã quên tên mất.
.
* SV Kiến Trúc tham gia trong những vai phụ hoặc làm décor: đã nói đến trong Hồi Ký bạn KT và phụ chú của các bạn Minh Bò 65, Nguyễn-Thanh-Cần 66 và Dương-Mạnh-Tiến 70 trong kỳ 17 vừa qua.
.
* Thi sĩ Đinh-Hùng đã tạ thế vài tháng sau khi tôi đến viếng nhà ông (tháng 8/67).
.
by Lamcongquyen
.
No comments:
Post a Comment